Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

Cái nhìn của một nhà dân chủ Việt Nam về bang giao Việt-Mỹ


Trong vài tuần qua, nhân dịp kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ, các giới chức ở Washington và Hà Nội cũng như nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng tán dương các thành quả của những nỗ lực xích lại gần nhau giữa hai nước cựu thù. Một số người, đặc biệt là giới doanh thương và các chuyên gia phát triển quốc tế, cho rằng những tiến triển tốt đẹp của mối bang giao này có ích cho nền kinh tế Việt Nam và do đó cũng có ích cho công cuộc vận động dân chủ hóa Việt Nam về lâu về dài.
Duy Ái - VOA | Washington D.C Thứ Năm, 22 tháng 7 2010

Ban Việt Ngữ VOA đã tiếp xúc với Bác sĩ Phạm Hồng Sơn ở Hà Nội, người từng bị cầm tù nhiều năm vì đã dịch và phổ biến trên internet bài viết “Thế nào là Dân chủ?” đăng trên website của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, và được ông cho biết một số ý kiến như sau.

VOA:
Từ vị thế của một người tranh đấu cho dân chủ Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua?

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Theo tôi sự phát triển của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua có những điểm rất đáng mừng và cũng rất đáng tiếc. Đáng mừng phải kể trước tiên là nước Việt Nam thống nhất đã thiết lập quan hệ chính thức với quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Và đáng mừng thứ hai là, nhìn một cách toàn cục, mối quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua đã và đang phát triển theo chiều hướng mở rộng hơn và sâu sắc hơn, đã mang lại nhiều lợi ích và hiểu biết lẫn nhau cho cả hai quốc gia. Từ lúc ban đầu chỉ là các hợp tác có tính chất nhân đạo hoặc chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, kinh tế, đến nay quan hệ Việt-Mỹ đã phát triển sang hầu khắp mọi lĩnh vực khác như giáo dục, an ninh, quốc phòng, quân sự và chính trị,…Minh họa cho những phát triển tích cực này đã được nhiều người phân tích và đề cập.

Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến hai điều tôi cho là đáng tiếc nhất trong 15 năm qua của quan hệ Việt-Mỹ. Thứ nhất, mối bang giao Việt-Mỹ lẽ ra đã có thể bắt đầu trở lại sớm hơn và phát triển rộng và sâu sắc hơn nhiều. Mặc dù nhiều người cho rằng quan hệ Việt-Mỹ đã có sự phát triển nhanh, nhưng đó chỉ là so sánh với bản thân mối quan hệ Việt-Mỹ. Chúng ta sẽ thấy khác, nếu so sánh quan hệ Việt-Mỹ với quan hệ giữa Mỹ và các nước khác. Ví dụ, chỉ cần so sánh với Campuchia, một quốc gia láng giềng có bối cảnh chính trị khá tương tự với Việt Nam sau 1975 và vị thế địa chính trị kém quan trọng hơn Việt Nam, đã được bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ và được hưởng các qui chế thương mại với Hoa Kỳ sớm hơn Việt Nam và đến nay Campuchia đang có nhiều hợp tác với Hoa Kỳ sâu sắc hơn Việt Nam. Và khi nhìn xa hơn, quan hệ Nhật bản-Mỹ đã chỉ cần 7 năm để từ cựu thù trở thành những đồng minh chiến lược của nhau.

Thứ hai, khi quan hệ với một quốc gia văn minh như Hoa Kỳ, phía Việt Nam chưa chú trọng tới việc tiếp thu các giá trị (tinh thần) tiến bộ của Hoa Kỳ - những điều đã làm nên một Hoa Kỳ hùng mạnh, bền vững suốt hơn một thế kỷ qua. Cụ thể thì chính quyền Việt Nam cho tới nay mới chỉ chú ý khai thác các lợi thế về kinh tế, thương mại khi quan hệ với Hoa Kỳ và đa phần người dân chỉ bị hấp dẫn bởi một đặc điểm có tính bề ngoài là giàu có, thích hưởng thụ tiện nghi vật chất của xã hội Mỹ.

VOA: Ông có thể nói rõ thêm về các giá trị tiến bộ của Hoa Kỳ?

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Các nhà khoa học về xã hội nhân văn đã nêu ra nhiều giá trị tiến bộ khác nhau trong xã hội Mỹ. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến 3 giá trị của xã hội Mỹ rất đáng tham khảo. Giá trị thứ nhất, giới tinh hoa của xã hội Mỹ gần như có một sự nhất trí tuyệt đối về quan niệm cho rằng bất kỳ sự tích tụ quyền lực công nào (vào tổ chức, đảng phái hay cá nhân) cũng dẫn đến độc tài, gây nguy hiểm cho quyền con người, sự toàn vẹn chủ quyền và sự giàu mạnh của quốc gia.

Do đó giới tinh hoa Mỹ và xã hội Mỹ từ thời kỳ lập quốc đến nay luôn nghiêng hẳn về việc ủng hộ và sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ nguyên tắc tam quyền phân lập trong hệ thống quyền lực công và sự cạnh tranh công khai để giành quyền được đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo đất nước. Giá trị thứ hai, xã hội Mỹ rất coi trọng và hết sức bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội” (equality of opportunity) cho mọi công dân bất kể sắc tộc, giai tầng, nguồn gốc. Người Mỹ coi “bình đẳng về cơ hội” là nền tảng để quốc gia Mỹ có thể huy động được tối đa mọi tài năng và sức mạnh tiềm ẩn trong xã hội. Người Mỹ luôn sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội”.

Cho đến nay, có thể nói, bất kỳ người Mỹ nào, dù có nguồn gốc Á, Âu hay Phi, đều cảm thấy nực cười và không thể chấp nhận được khi có ai đó tự cho bản thân hay sắc tộc, đảng phái của mình có khả năng duy nhất để làm tốt một việc gì đó. Giá trị thứ ba là người Mỹ có tinh thần cởi mở, dung thứ và độ lượng rất cao. Người Mỹ có thể cạnh tranh, chỉ trích nhau rất quyết liệt (thậm chí đã từng đánh nhau dữ dội như hồi nội chiến 1861-1865) nhưng họ rất dễ dàng tha thứ cho nhau, thân thiện với nhau trở lại để cùng sống hòa bình hoặc để cùng phụng sự lợi ích công cộng.

VOA: Thưa ông, đâu là nguyên nhân của sự phát triển vừa đáng mừng vừa đáng tiếc trong quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua như ông vừa nêu?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Có rất nhiều nguyên nhân nếu nhìn ở các góc độ khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất, theo tôi, nằm trong động cơ nền tảng của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua. Như chúng ta thấy mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua không chỉ là mối bang giao giữa hai hệ thống chính quyền đã từng là cựu thù của nhau (tôi xin nhấn mạnh cựu thù giữa hai hệ thống chính quyền chứ không phải hai dân tộc như nhiều người ngộ nhận) mà còn là mối bang giao giữa một quốc gia có hệ thống chính trị thuộc loại dân chủ trưởng thành nhất thế giới với một quốc gia có nền chính trị độc đảng, phi dân chủ. Và chính vì sự trái ngược nhau giữa hai hệ thống chính trị, nên động cơ thiết lập mối bang giao từ hai quốc gia cũng có nền tảng hoàn toàn khác nhau. Đối với Hoa Kỳ, động cơ để thiết lập bang giao với Việt Nam được đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của quốc gia Hoa Kỳ.

Còn đối với Việt Nam thì động cơ để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ lại đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS VN) trong nhu cầu giữ quyền lãnh đạo độc tôn trên toàn quốc gia Việt Nam. Do đó, từ tổng thể cho đến từng chi tiết, sự phát triển của mối bang giao Hoa Kỳ-Việt Nam trong 15 năm qua đều phát triển trong khuôn khổ qui định của hai động cơ nền tảng vừa kể.

Về phía Hoa Kỳ, mặc dù là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới và lại có hệ thống chính trị dân chủ nhưng cấp cao nhất trong hầu hết các chính phủ cầm quyền ở Hoa Kỳ, ngay từ sau 1975 cho đến nay, vẫn luôn sẵn sàng thiết lập hay mở rộng quan hệ với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, kể cả về văn hóa, an ninh, quân sự, chính trị vì điều đó hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ trong các vấn đề như mở rộng thị trường xuất khẩu, kiềm chế sự ảnh hưởng của Trung quốc, chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt nhân v.v tại vùng Đông Nam Á nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.

Trong khi đó về phía Việt Nam, sự phát triển của mối quan hệ với Hoa Kỳ lại thể hiện rõ sự khinh thường, thúc bách hay do dự xuất phát từ nhu cầu cầm quyền của ĐCS VN. Ví dụ cấp lãnh đạo cao nhất của ĐCS VN không chỉ khinh thường các tín hiệu muốn thiết lập bang giao với Việt Nam từ phía chính quyền Jimmy Carter vào năm 1977 mà còn không coi trọng những đề xuất sớm nối lại quan hệ với Hoa Kỳ từ những nhân vật cấp dưới trong ĐCS VN như cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Phải đến khi ĐCS VN bị mất các nguồn viện trợ từ khối Xã hội chủ nghĩa và buộc phải “cởi trói” kinh tế để tránh một đại khủng hoảng xã hội (vào nửa cuối thập niên 1980), ĐCS VN mới bắt đầu nhận ra sự cần thiết trong việc thiết lập bang giao với Hoa Kỳ, vì thiếu sự ủng hộ của Hoa Kỳ thì mục tiêu phát triển kinh tế để giữ vững “ổn định chính trị” của ĐCS VN sẽ rất khó khăn hoặc bất khả thi.

Tôi còn nhớ một chi tiết do một cựu quan chức của Tổng cục Hàng không Việt Nam cho biết là vào những năm đầu thập niên 1990 Tổng cục Hàng không Việt Nam không thể thuê hay mua thiết bị để nâng cấp máy bay chuyên cơ cho cấp lãnh đạo cao cấp của ĐCS VN chỉ vì các hãng cung cấp quốc tế không dám thực hiện do ngại lệnh cấm vận của Hoa Kỳ. Sự do dự của ĐCS VN sau khi đã thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ cũng thể hiện khá rõ. Ví dụ, chỉ sau khi Trung quốc, Campuchia đã được Hoa Kỳ trao qui chế PNTR (Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn) thì giới lãnh đạo của ĐCS VN mới đi đến thống nhất phải tăng tốc các cuộc đàm phàn và chấp nhận những đòi hỏi, yêu cầu của phía Hoa Kỳ trong các cuộc thương thảo để được hưởng qui chế PNTR (một điều kiện bắt buộc để được tham gia WTO).

Cho đến những năm gần đây, sự phát triển quan hệ với Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục thể hiện rõ tính do dự, quan ngại cho lợi ích của ĐCS VN cao hơn lợi ích của nhân dân và quốc gia. Ví dụ, sự phát triển trong hợp tác về quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ thấy gia tăng, nhưng vẫn còn khá hình thức và cầm chừng, sau khi dư luận Việt Nam hết sức phẫn nộ trước các hành vi xâm phạm và đe dọa chủ quyền từ Trung quốc, trong khi Hoa Kỳ đã phát ra những thông điệp sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam. Hay việc ĐCS VN hiện nay rất muốn được Hoa Kỳ trao cho một qui chế ưu đãi về thương mại có tên GSP (Generalized System of Preferences) nhưng lại không muốn đáp ứng đòi hỏi về phía Hoa Kỳ là Việt Nam cần phải có các tổ chức công đoàn thực sự độc lập để bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam.

Bên cạnh đó, hệ thống báo chí và tuyên truyền của ĐCS VN vẫn bị lực lượng bảo thủ duy trì chính sách thông tin cắt xén, che giấu nhằm bóp méo hình ảnh nước Mỹ hay những tiến bộ trong mối quan hệ Việt-Mỹ, vẫn dùng lại cụm từ “Mỹ-Ngụy” gây cho nhận thức của dân chúng về Hoa Kỳ bị thiếu hụt, lệch lạc và thậm chí nghi kỵ, bài Mỹ. Trong khi đó ĐCS VN lại tỏ ra rất “độ lượng” với Trung quốc, không chỉ quên hẳn “bài học” tháng Hai năm 1979 mà còn tỏ ra thân ái, lễ độ trước những hành vi tàn ác, ngang ngược của Trung quốc vẫn đang tái diễn đối với ngư dân Việt Nam và chủ quyền Việt Nam trong nhiều năm qua.

Tóm lại, những điều đáng tiếc của quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua là do ĐCS VN chưa thoát được khỏi ý thức hệ Marx-Lenin và/hoặc vẫn đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích của toàn dân tộc. Tuy nhiên, mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua cũng đã giúp cho nhiều người dân và nhiều đảng viên Cộng sản nhận ra rằng những quan ngại, do dự hay né tránh của ĐCS VN khi quan hệ với Hoa Kỳ không chỉ đi ngược lại với nhu cầu phát triển bền vững và bảo toàn chủ quyền của Việt Nam mà còn làm cho uy tín cầm quyền của ĐCS VN ngày càng bị xói mòn thêm.

VOA:
Ông nghĩ sao về nhận định cho rằng sự giao hảo giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có lợi cho kinh tế Việt Nam và do đó cũng có lợi cho nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam?

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Đúng là giữa phát triển kinh tế và dân chủ hóa có mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ đó không phải là mối liên hệ thuận chiều hay có tính nhân quả tất yếu, mặc dù chúng có thể tác động thúc đẩy lẫn nhau. Vì bản chất của kinh tế là nhằm gia tăng các giá trị vật chất (hữu hình) cho cá nhân và xã hội còn bản chất của dân chủ hóa là nhằm xây dựng các giá trị tiến bộ (vô hình) cho cá nhân và cộng đồng. Cũng giống như hai phần của một con người là thể xác (tương đương với kinh tế) và tinh thần (tương đương với dân chủ). Một thể xác luôn đói khát thì khó nói đến đạo đức hay những giá trị tinh thần cao đẹp. Nhưng một thể xác đầy đủ, béo tốt lại không thể đảm bảo để con người có một đời sống tinh thần lành mạnh, tử tế, thậm chí sự thừa thãi về vật chất còn làm con người trở nên bệnh tật về thể xác và bệnh hoạn về tinh thần. Tương tự, ô nhiễm môi trường, băng hoại đạo đức và tham nhũng tràn lan là ba đặc điểm luôn nổi bật trong các chế độ chỉ “cởi trói” về kinh tế nhưng vẫn độc đoán về chính trị.

Do đó, sẽ là sai lầm khi cho rằng sự phát triển trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tự nhiên mang lại thuận lợi cho dân chủ hóa Việt Nam, chưa kể đến việc tăng trưởng kinh tế trong môi trường phi dân chủ sẽ tạo điều kiện để các lực lượng cầm quyền độc đoán có thêm những nguồn lực mờ ám làm tăng sức mạnh cho bộ máy tuyên truyền và bộ máy đàn áp của chúng. Ngay như nước Mỹ vào thập niên 1960 (khi đó đã có mức sống kinh tế cao hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều) cũng vẫn phải có những nỗ lực vận động, đấu tranh, hy sinh để bảo vệ và hoàn thiện nền dân chủ Mỹ, nếu không, nước Mỹ chắc chưa thể có một tổng thống da màu và một xã hội vững mạnh như ngày hôm nay.

VOA: Trong cuộc họp báo hôm 29 tháng 6 ở Hà Nội, Đại sứ Hoa Kỳ Michael Michalak cho biết Washington “đã cấp các khoản tài trợ trị giá tổng cộng 350.000 đôla cho các tổ chức phi chính phủ Việt Nam để củng cố dân chủ, gia tăng sự tôn trọng dành cho xã hội dân sự và nền pháp quyền, và thúc đẩy nhân quyền và nữ quyền.” Ông nhận định như thế nào về nỗ lực của Hoa Kỳ trong lãnh vực này và ông muốn giới hữu trách ở Washington có những nỗ lực cụ thể nào để góp phần thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam?

Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Việc chính quyền Hoa Kỳ trợ giúp tài chính cho các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam là một hướng đi đúng đắn và cần tăng cường hơn nữa vì một xã hội dân chủ không thể thiếu các tổ chức, hội đoàn dân sự độc lập hay “phi chính phủ”. Tuy nhiên, chúng ta nên hết sức lưu ý để các trợ giúp đến được đúng đích vì các tổ chức được hoạt động công khai và hợp pháp ở Việt Nam hiện nay rất khó giữ được tính “phi chính phủ” hoặc chúng chỉ là các “tổ chức phi chính phủ” trá hình còn thực chất vẫn là các tổ chức của chính phủ vì ĐCS VN hiện vẫn tìm mọi cách chi phối, kiểm soát mọi tổ chức, hội đoàn dân sự, không cho phép bất cứ một tổ chức quần chúng nào có tính độc lập, tự quản tồn tại.

Về mong muốn giới hữu trách tại Washington đối với tiến trình dân chủ hóa Việt Nam: thứ nhất, với tư cách là một người Việt Nam, tôi lại muốn tự đặt câu hỏi ngược lại là “Người Việt Nam chúng ta đã ý thức được tầm quan trọng và nỗ lực hết sức cho dân chủ hóa Việt Nam hay chưa?” vì mọi nỗ lực hay trợ giúp quốc tế đều trở nên vô nghĩa và thậm chí trở nên kỳ cục nếu bản thân người dân nước sở tại không dám đấu tranh và trả giá cho những tiến bộ xã hội.

Thứ hai, chúng ta phải hiểu các giới chức tại Washington là những viên chức của một nhà nước dân chủ, nghĩa là trách nhiệm trước tiên của họ là phải phục vụ lợi ích cho nhân dân Mỹ. Do đó chúng ta không nên quá kỳ vọng, đòi hỏi hay quá bi quan, trách móc khi nhìn vào sự ủng hộ, trợ giúp từ giới hữu trách Washington. Nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng các giá trị văn minh như dân chủ, nhân quyền là các giá trị mà gần như bất kỳ người Mỹ nào cũng chia sẻ và ủng hộ.

Ngắn gọn lại, theo tôi, chỉ riêng việc giới hữu trách tại Washington vẫn tiếp tục duy trì và cố gắng mở rộng phạm vi trong quan hệ Việt-Mỹ đã là một thuận lợi, trợ giúp quí giá cho tiến trình dân chủ hóa của Việt Nam rồi. Phần việc còn lại phải là của chúng ta-những con dân của nước Việt Nam.

VOA: Xin cám ơn Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã dành cho Ban Việt ngữ cuộc phỏng vấn này.

Thần kỳ Vinaxhin


Suốt mấy ngày qua cái tên Vinaxhin liên tục xuất hiện trên trang nhất của các ấn phẩm báo chí lớn nhất của khu vực và thế giới, đặc biệt là các tạp chí chuyên về kinh doanh, kinh tế. Vinaxhin là tên của một đại công ty của xứ Biệt Nam vừa năm thứ ba liên tiếp lọt vào bảng xếp hạng 50 công ty có tính sáng tạo và minh bạch nhất thế giới do tạp chí Pusinessweek bình chọn. Vinaxhin hoạt động đa lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Các sản phẩm và mặt hàng kinh doanh của Vinaxhin rất đa dạng và khác biệt từ sản xuất tàu biển, tàu vũ trụ cho đến môi giới đầu tư, quản lý khách sạn, kinh doanh xe máy và là chủ sở hữu của hàng trăm các sáng chế khác nhau. Vinaxhin hiện đang là mẫu mực cho sự táo bạo, sáng tạo nhưng rất minh bạch, trách nhiệm cộng đồng trên thương trường toàn cầu. Tuy nhiên, cái tên Vinaxhin đã có một thời đồng nghĩa với một vụ đại phá sản, đục khoét tiền dân khổng lồ của xứ Biệt Nam.

Vụ việc xảy ra cách đây đã khá lâu (hoặc chưa lâu lắm, tùy theo quan niệm của mỗi người). Năm đó, không hiểu sao đúng vào lúc tiết trời rất nóng, dư luận ở xứ Biệt Nam lại xôn xao khi biết có một đại công ty nhà nước tên là Vinaxhin làm thất thoát rất nhiều tiền và tài sản của người dân (khi đó vẫn hay gọi một cách mỹ miều là “lạm dụng ngân sách nhà nước”). Biển lận tiền dân và thậm chí biển lận lãnh thổ quốc gia không còn là chuyện lạ ở xứ Biệt Nam khi đó. Nhưng lần này, người dân hết sức bối rối và choáng váng khi nhìn hàng chữ số dài dằng dặc biểu hiện số tiền của mình bị Vinaxhin làm cho “biến mất”. Nhiều người không thể đọc nổi, vì cả đời chưa bao giờ gặp con số nào dài đến thế. Vinaxhin cũng như hàng chục các đại công ty nhà nước khác của xứ Biệt Nam lúc đó, thực chất, chỉ là những nơi để các “bố già” và tay chân của họ rút tiền dân một cách đàng hoàng và hợp pháp mà thôi. Bằng chứng là ngay báo chí của chính các “bố già”, không hiểu vì lý do gì, cũng từng viết: “…Với tỷ suất lợi nhuận trên vốn quá thấp hay thậm chí thua lỗ triền miên, nhưng các công ty và các tập đoàn nhà nước vẫn tồn tại và…tiếp tục được Nhà nước rót tiền và dành cho nhiều ưu đãi.” Điều oái ăm là vụ Vinaxhin lại nổ ra đúng vào lúc cuộc đua tranh giành quyền được thu gom và sử dụng tiền thuế của dân giữa các “bố già” trong (băng) đảng hợp pháp duy nhất đang vào hồi quyết định. Nghe nói các “bố già” của Vinaxhin đã tìm mọi cách để biến báo, giấu nhẹm sự vỡ lở tai hại tại Vinaxhin, kể cả phải nhờ cậy sự trợ giúp của các đại công ty của các “bố già” chiến hữu và các “bố già” xứ láng giềng có biệt hiệu “bốn tốt”, nhưng đều bất lực. Dư luận của xứ Biệt Nam cứ cuộn lên, sôi sục khắp nơi, nhất là những vùng hoang hóa, tiêu điều do Vinaxhin để lại. Dư luận dâng cao đến mức không chỉ đòi phải mở tung Vinaxhin và tất cả các đại công ty nhà nước khác cho nhân dân (những người vẫn được các “bố già” gọi là “ông bà chủ”) xem mà còn có nguy đòi được xem nhiều vấn đề khác to lớn hơn nhưng khó hình dung hơn nhiều. Có người dân huỵch toẹt luôn: “Thượng bất chính thì hạ nó mới loạn chứ!” Có người lại rất chua chát: “Thế mà tự vỗ ngực là đạo đức, là văn minh đấy!” Có người lại đùng đùng: “Cứ lôi cổ bọn chóp bu ra hỏi tội là xong hết.”

Các “bố già” đối thủ của Vinaxhin cũng không ngờ sự việc lại trượt xa đến thế. Cuối cùng, các “bố già” của Vinaxhin và các “bố già” khác đành ngồi lại với nhau, đánh bài ngửa, tìm cách đưa “dư luận” trở về với sự “ổn định” thường thấy. Sau những cuộc cãi vã hết sức căng thẳng, tất cả các “bố già” lại đi tới nguyên tắc “cùng thắng” và cam kết phối hợp chặt chẽ như các vụ tương tự đã từng xảy ra. Hệ thống truyền thông (hợp phát duy nhất) của các “bố già” bắt đầu đồng loạt phát các tuyên bố, phát biểu hết sức bức xúc và nghiêm khắc của các “bố già” về vụ Vinaxhin. Nào là “Phải điều tra và xử lý nghiêm những cán bộ đã gây thất thoát vốn ngân sách nhà nước tại Vinaxhin.” Nào là “Nhất quyết không thể để những con sâu làm rầu pho lịch sử bằng vàng của Đảng ta.” Rồi là “Phải hết sức lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân nhưng cũng phải cảnh giác với các âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.” Có “bố già” còn đích thân xuất hiện trên truyền hình, cam kết không để vụ Vinaxhin bị chìm xuồng như các vụ PiCI hay TiC 2 và “quyết tâm xứng đáng với vai trò là người đầy tớ trung thành của nhân dân.” Gần một trăm lãnh đạo lớn nhỏ của Vinaxhin lần lượt được đưa vào nhà tù. Dân tình đa phần đều hỉ hả, nhưng cũng có người thờ ơ hay ngờ vực: “Tù thì cũng có năm bảy loại tù!” Các cơ quan tố tụng và hệ thống tuyên truyền đồ sộ của các “bố già” được huy động hết công suất, phối hợp nhịp nhàng để kéo dư luận bu hết vào mấy tên có hành vi “lạm dụng chức vụ” hay “vi phạm các nguyên tắc quản lý tài chính” ở Vinaxhin. Cùng với việc triển khai những biện pháp tế nhị hoặc thiếu tế nhị để chặn, để dập hết tất cả những gì dám vượt khỏi “lề phải”, dư luận về vụ Vinaxhin trở nên nhạt dần. Đám nhân sỹ của xứ Biệt Nam lại im lặng đưa mắt nhìn nhau, rồi quay đi… nhìn vào xa xăm.

Nhưng bỗng “đùng” một cái, xứ Biệt Nam xảy ra những thay đổi hết sức đặc biệt. Nói “đặc biệt” là so với chính xứ Biệt Nam thôi, chứ đối với nhiều xứ khác thì những cái gọi là “đặc biệt” đó đã là điều bình thường từ rất lâu rồi. Trong những điều thay đổi đó, đáng phải kể trước tiên, và nhiều người đồng ý cho là cơ bản nhất, là cả hệ thống công quyền và mọi tổ chức trong xã hội của xứ Biệt Nam được thoát khỏi sự khống chế, ràng buộc của các “bố già” hay nói một cách chữ nghĩa là xứ Biệt Nam không còn bị đặt dưới sự “lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện” của bất cứ tổ chức, đảng phái nào nữa. Các báo, đài phát thanh, phát hình từng phải chui lủi, vượt “tường lửa”, vượt “sóng” để đến với công luận, đã xuất hiện đàng hoàng trên các sạp báo, được phát một cách tự do trên các làn sóng vô tuyến phủ khắp xứ Biệt Nam. Những cái tên như dalawas.org, poxitvn.net, thongluat.org, noithoaionline.org, tanluan.org, xkafe.org, danchimbiet.com, dcbonline.net, nguoi-biet.com, nuvuongkongly.net, dcctbn.net…hay Tổ Đuốc, Tự đo Ngôn Luận,…AFA, RFY, BOA, PPC, Chân Trời Nới, SBTM…không còn xa lạ hay gây e ngại cho những người thờ ơ với xã hội hay những người nhút nhát nữa. Giới blogger được tự do gõ phím, dốc mọi tâm sự đang u uất hay phấn chấn trong lòng ra blog. Hệ thống truyền thông do các “bố già” để lại, sau một hồi choáng váng và chập choạng, cũng phát triển thành các cơ quan truyền thông độc lập hoặc biến mất. Những cái tên như QDND, ND, An ninh Ghế giới hoặc Hanh Niên, Tuổi Tẻ, BTB1, BTB3, BTB4, BOB…vẫn tồn tại nhưng ở dưới các măng-sét đều ghi thêm dòng chữ “hoàn toàn không như trước”, nhỏ nhưng đậm. Làng báo chí tại xứ Biệt Nam bỗng chốc trở nên sống động, hấp dẫn và bổ ích. Các tổ chức, đoàn thể xã hội của các “bố già” như chỉ chờ đến lúc này là tự tan vỡ hoặc biến thành các tổ chức, đoàn thể hoàn toàn mới. Một Hiến pháp mới được toàn bộ dân của xứ Biệt Nam, không kể trong hay ngoài nước, đóng góp xây dựng và bỏ phiếu thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý lịch sử (lần đầu tiên trên toàn cõi Biệt Nam). Hiến pháp mới qui định rõ ba nhánh quyền lực độc lập của hệ thống nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và các quyền tự do của người dân theo đúng các giá trị phổ quát của nhân loại. Chắc vẫn còn bị ám ảnh bởi Điều 4 Hiến pháp thời “bố già”, nên ngay Điều 1 của Hiến pháp mới ghi rõ: “Đất nước Biệt Nam là của chung của tất cả mọi người Biệt Nam. Không ai được độc quyền bày tỏ lòng yêu nước Biệt Nam hoặc thiết lập sự lãnh đạo, điều khiển độc tôn trên đất nước Biệt Nam với bất kỳ lý do gì.” Trong các doanh trại quân đội tiếng hô của các binh sỹ cứ vang rền: “Chỉ Trung thành với Tổ quốc”. Trong các trụ sở công an chỉ còn thấy treo một dòng chữ rất to: “Chỉ bảo vệ Nhân dân” .

Sau lần thay đổi đặc biệt, xứ Biệt Nam cũng có xảy ra một số việc đáng buồn như dân nghèo nổi dậy đập phá, hôi của của một số gia đình viên chức cũ hay người dân tự trừng trị những viên chức tàn ác trong ngành an ninh thời “bố già” hoặc một số viên chức cũ bỏ lại nhà cửa, đem cả gia đình ra nước ngoài sống. Nhưng hệ thống thực thi pháp luật đều nhanh chóng lập lại trật tự, trừng phạt những hành động xâm phạm tùy tiện tài sản, thể xác, nhân phẩm người khác, bảo vệ mọi tài sản vắng chủ và tạo điều kiện để mọi người được tự do lựa chọn nơi cư trú. Lại có cả những cảnh rất lạ như có những đoàn người rất đông, lẳng lặng cứ đi vòng quanh quảng trường nổi tiếng nhất ở thủ đô, chốc chốc lại đồng loạt mỉm cười rồi lại đồng loạt chảy nước mắt dàn dụa. Mấy triệu người Biệt Nam xa xứ trên khắp thế giới đều tổ chức ăn mừng và náo nức trở về thăm quê. Tự nhiên tất cả những người Biệt Nam trở về đều được gọi khác hẳn với trước. Các phương tiện truyền thông đều đồng loạt gọi họ là “Đồng bào xa xứ”. Thỉnh thoảng có người vẫn còn dùng từ “Biệt kiều”, nhưng từ “Biệt kiều yêu nước” thì mất hẳn. Những cuộc đoàn tụ gia đình cũng xúc động không kém cảnh những bà con ở hai miền Nam-Bắc của xứ Tiều Tiên được gặp lại nhau sau hàng chục năm ly biệt.

Xứ Biệt Nam như được thay da, đổi thịt hoàn toàn. Tuy nhiên, vụ Vinaxhin, cũng như nhiều vụ án dang dở khác, vẫn phải chờ ngày ra tòa để đối diện với Công lý. Nhóm bị cáo trong vụ Vinaxhin gần như hoảng loạn, họ tự coi như đã đến ngày tận số. Lời hứa “Cứ yên tâm sống tạm trong “đó” một thời gian.” đã bay cùng với các “bố già” đi tỵ nạn hết. Dư luận hết sức nóng lòng và hồi hộp chờ đợi ngày phán xử các bị cáo Vinaxhin. Nhưng tất cả các bị cáo và thân nhân đều hết sức ngỡ ngàng khi tiếp xúc với các viên chức mới, gọi là mới nhưng có nhiều người đã từng là viên chức thời “bố già”. Các bị cáo được đối xử đúng với tinh thần “suy đoán vô tội”, được tôn trọng, được gặp gỡ và bàn thảo thoải mái với các luật sư trong quá trình điều tra lại. Khi nhận ra sự hoang mang của các bị cáo, các viên chức của chế độ mới đã nói:”Chúng ta mới chỉ đang vận dúng đúng như những gì mà luật tố tụng của các “bố già” đã qui định thôi mà.” Thân nhân được vào trại giam thăm gặp, trao đổi thường xuyên và không thấy ai gọi điện hay gặp gỡ để vòi vĩnh hay dọa nạt. Thậm chí có tờ báo lỡ gọi họ là tội phạm theo thói quen thời báo chí “bố già” thì lập tức bị các tờ báo khác lên tiếng phê phán, đính chính ngay. Các bị cáo vẫn hết sức căng thẳng, phấp phỏng và chuẩn bị đón nhận những điều xấu nhất. Nhưng đến khi ra tòa thì những phấp phỏng, hoang mang biến dần. Phiên tòa xét xử các bị cáo Vinaxhin là phiên tòa có rất nhiều cái đầu tiên trong lịch sử nước Biệt Nam thống nhất. Lần đầu tiên giới báo chí, trong cũng như ngoài nước, cùng với giới ngoại giao được đến chứng kiến trực tiếp một phiên tòa công khai mà không cần phải có giấy mời hay xin phép trước. Lần đầu tiên cử tọa được vào dự khán xét xử một cách tự do, không ai bị xét hỏi. Lần đầu tiên bị cáo và luật sư được ngồi ngang hàng với bên công tố. Lần đầu tiên bên bị cáo được tranh luận hết sức thoải mái và bình đẳng với bên công tố và hội đồng xét xử. Lần đầu tiên người ta thấy hội đồng xét xử trấn an các bị cáo: “Đề nghị Ông X (Bà Y) cứ bình tĩnh trình bày cho thật đầy đủ và rõ ràng, không sợ thiếu thời gian.” Không thấy ông thẩm phán hay hội thẩm nhân dân nào gọi các bị cáo bằng cái tên trọc lốc cả. Các nhân viên giữ trật tự cho tòa từ ngoài vào trong đều mặc sắc phục đồng màu, mẫn cán, nghiêm khắc nhưng lịch thiệp. Không còn thấy những người có hình dạng đủ loại, với những ánh mắt dò xét, lấc láo, đứng ngồi rải rác khắp tòa và quanh khu vực tòa án của thời “bố già”. Nhiều người đến xem phiên tòa cứ tấm tắc: “Được xử như thế này thì có bị chặt đầu kể cũng hả.” Nhưng có người tỏ ra rất bất bình: “Đ… ai lại đi tử tế với bọn hút máu dân như thế chứ.”

Kết quả của phiên tòa sau đó còn gây ra nhiều tranh cãi hơn nữa. Nhóm luật sư của các bị cáo Vinaxhin đã biện luận thành công, thuyết phục được Hội đồng xét xử đồng ý hoàn toàn với quan điểm của mình. Với chất vấn:”Tại sao Vinaxhin lại dám bổ nhiệm những người mới tốt nghiệp đại học tại chức hoặc chưa có kinh nghiệm quản lý vào những chức vụ quan trọng như thế?”, luật sư của Vinaxhin trả lời: “Kính thưa Hội đồng xét xử, tài năng đâu có đợi tuổi hay phụ thuộc vào bằng cấp. Nếu cứ thành kiến như câu hỏi mà Hội đồng xét xử vừa đặt ra thì làm sao tin được một anh chàng nói năng còn ngọng nghịu, học hành chưa ra đâu vào đâu mà làm chủ cả một hãng hàng không nổi tiếng thế giới hoặc có những cậu thanh niên choai choai nhưng lại lập nên một đại công ty lừng lẫy thế giới. Vậy chúng tôi xin được phản đối câu hỏi vừa nêu của Hội đồng xét xử.” Với chất vấn: “Tại sao chức năng chính là đóng tàu thủy mà Vinaxhin lại đầu tư dàn trải sang rất nhiều lĩnh vực khác, chẳng liên quan gì đến tàu thủy?”, luật sư của Vinaxhin đáp lại: “Kính thưa Hội đồng xét xử, mặc dù chúng tôi rất tôn trọng và cảm kích trước sự uy nghiêm và rộng lượng của Hội đồng xét xử đã dành cho chúng tôi nhưng chúng tôi không thể không thấy câu hỏi của Hội đồng xét xử đã lặp lại sự hời hợt nóng vội của nhóm dư luận thiếu suy xét. Theo chúng tôi, trong một thế giới đã chứng kiến sự sáng tạo của con người là vô giới hạn, thì việc một công ty dám mạo hiểm sang nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau là chuyện hết sức bình thường. Nếu muốn phê phán thì chúng ta chỉ có thể đặt vấn đề vào tính hiệu quả của những đầu tư đó mà thôi. Do vậy chúng tôi cũng xin phản đối câu hỏi không mang nhiều ý nghĩa đó của Hội đồng xét xử.” Đặc biệt, sau khi các bị cáo phải thừa nhận và Hội đồng xét xử chấp thuận các chứng cứ của bên công tố rằng các bị cáo đã tham nhũng một số tiền tương đương với tổng thu nhập trong hai năm của tỉnh BH (một tỉnh lớn) tại Biệt Nam lúc đó, nhóm luật sư của Vinaxhin lên tiếng:

“Kính thưa Hội đồng xét xử và tất cả các quí vị, xét dưới góc độ trách nhiệm của một công dân và là những người đã tự nhận là “đày tớ” của nhân dân thì thân chủ của chúng tôi đáng nhận tội chết cho những hành vi tội lỗi của họ. Và nếu lại nhìn thêm vào đời sống còn hết sức cơ cực của đa số người dân chúng ta hiện nay hay nhìn vào tình trạng xuống cấp, quá tải của các bệnh viện, các trường học ở khắp Biệt Nam chúng ta, thì thân chủ của chúng tôi phải đáng tội chết hai hay ba lần cũng xứng đáng.

Tuy nhiên, với tư cách là những luật sư đã từng hành nghề trong thời kỳ đất nước chúng ta nằm dưới sự quản lý của các “bố già”, chúng tôi kính xin Hội đồng xét xử hãy xem xét lại bối cảnh chính trị và môi trường kinh doanh của các bị cáo. Theo chúng tôi, nếu phải kết các bị cáo vào tội chết một lần thì chúng ta cần phải kết tội chết cho cái chế độ đã tạo điều kiện và dung dưỡng các hành vi tham nhũng mười lần. Kính thưa Hội đồng xét xử, chúng tôi dám chắc rằng bất kỳ ai khi ở trong vị trí của các bị cáo lúc đó cũng khó có thể tránh được hành vi tham nhũng. Trong lĩnh vực quản lý tài chính người ta thường nói, một cách hình ảnh, rằng “đồng tiền cần phải đặt dưới một bóng đèn bật sáng”. Bóng đèn bật sáng đó tượng trưng cho sự giám sát độc lập, minh bạch từ bên ngoài. Thế nhưng, như Hội đồng xét xử và toàn thể các quí vị đã rõ, trong chế độ trước đây hệ thống quản lý nhà nước từ thấp đến cao đều không có bất cứ một “bóng đèn” nào. Cả hệ thống đó đều đã “tối om” dưới “bàn tay” của các “bố già”. Chúng ta chắc chưa thể quên, công tác thanh tra (dù không có tính độc lập) đối với Vinaxhin còn bị các “bố già” cho dừng ngay khi vụ việc bị vỡ lở.

Xin Hội đồng xét xử và các quí vị đừng cho rằng những biện giải vừa rồi của chúng tôi là muốn chạy tội cho những kẻ tham nhũng hay không đấu tranh triệt để với tham nhũng. Không, ngược lại, chúng tôi hết sức căm thù tham nhũng, chính chúng tôi đã là nạn nhân của tham nhũng và, do nghề nghiệp, chúng tôi hiểu sự tai hại vô cùng lớn của nạn tham nhũng đối với xã hội và từng cá nhân. Nhưng chúng tôi rất muốn chúng ta không nên quên rằng gốc rễ của nạn tham nhũng, hay chính xác hơn là nạn tham nhũng không thể kiểm soát, là do tính chất phi dân chủ, chuyên quyền của hệ thống quyền lực nhà nước. Nói một cách khác, một chế độ chính trị phi dân chủ, chuyên quyền, độc đảng thì không thể chống được tham nhũng.

Nếu tạm gác lại trách nhiệm cá nhân của mỗi con người đối với xã hội thì, theo chúng tôi, tất cả chúng ta, các bị cáo Vinaxhin và kể cả các “bố già”, đều đã cùng là nạn nhân của cái chế độ chính trị tai quái do chính các “bố già” tạo nên. Cái chế độ đó đã đẩy lùi nước Biệt Nam chúng ta về phía sau của lịch sử, đã gây ra bao đau thương, oan trái cho người dân chúng ta và cũng chính chế độ đó đã cầm tù những kẻ đã sinh ra và dung dưỡng nó trong sự tham lam, hận thù và sợ hãi. Rất may, cái chế độ tai quái đó đã vừa bị chúng ta tiễu trừ, vậy thì chúng ta có cần thiết phải tiêu diệt cả những nạn nhân-thủ phạm của cái chế độ đã chết rồi đó không?

Chúng ta đang xây dựng một hệ thống quản lý nhà nước, một môi trường xã hội tự có sức đề kháng tham nhũng. Vậy việc loại bỏ cuộc sống của những kẻ tham nhũng trước đây có thể là điều không cần thiết vì những người đó sẽ khó có thể tái tham nhũng trong môi trường mới. Chưa kể đến việc khi người dân thấy chế độ mới hành xử khắc nghiệt với những người làm việc cho chế độ cũ thì sẽ không tránh được sự liên tưởng ngay tới cách hành xử nhỏ nhen, hẹp hòi, nông cạn và tàn ác của thời “bố già. Khi đó nhân tâm lại xáo động, lòng người lại nghi ngại, dè dặt, sợ hãi. Chắc chắn điều đó sẽ làm tổn hại tới quá trình hòa giải, hòa hợp, phi hận thù đang có chiều hướng rất tích cực trong toàn xã hội của chúng ta.

Kính thưa quí vị, chúng tôi cũng hiểu sự bức xúc, căm phẫn của tầng lớp dân nghèo đối với các viên chức tham nhũng của thời “bố già” trước đây vẫn rất sôi sục. Nhưng, một chế độ xây dựng lòng tin và uy thế bằng cách chiều theo những đòi hỏi, bức xúc nông nổi của dân chúng sẽ chỉ làm cho chế độ đó rời xa sự chính trực, công bằng và tính dân chủ - những điều tối thiểu cần cho một vị thế lịch sử đáng trân trọng của một chế độ. Vậy, chúng tôi thiết tha đề nghị Hội đồng xét xử hãy cân nhắc giữa việc bắt các bị cáo Vinaxhin phải đền tội bằng mạng sống của họ với việc tìm cho họ một cơ hội sống để họ được chuộc lại lỗi một cách tích cực.

Chúng tôi tin rằng công luận ở khắp nơi và con mắt của lịch sử đang cùng trông đợi vào sự sáng suốt của lý trí và lòng nhân từ trong trái tim của toàn thể các thành viên trong Hội đồng xét xử ngày hôm nay. Cuối cùng, chúng tôi xin phép Hội đồng xét xử và tất cả các quí vị cho chúng tôi được nhắc lại lời nói của Melson Nandela - một con người đã trở thành biểu tượng cho đấu tranh vì tự do, hòa giải, hòa hợp của nhân loại: “Tự do không chỉ là việc giành được tự do cho bản thân mà còn phải biết mang lại tự do và sự yên bình cho người khác.” Xin cảm ơn Hội đồng xét xử và toàn thể quí vị.”

Diễn biến phiên tòa được báo chí xứ Biệt Nam và quốc tế tường thuật, phân tích, mổ xẻ đến từng chi tiết nhỏ. Các tranh luận, cãi vã cứ ào ạt nổ ra quanh các chi tiết do báo chí đưa tin. Có những tranh luận không thể đi đến sự ngã ngũ như: con người “đẻ” ra cơ chế hay cơ chế “đẻ” ra con người? Ai cũng thấy háo hức và thoải mái vì được nói thoải mái những điều mình nghĩ. Nhưng những phát biểu chỉ hơi có tính dọa nạt hay thách thức bạo lực là đã bị Ủy ban gìn giữ Hòa bình (một cơ quan mới thành lập thay cho KA25 thời “bố già’) nhắc nhở ngay. Nếu sau 3 lần nhắc nhở mà vẫn tái phạm thì đương sự sẽ phải chịu hình phạt không được tham gia tất cả các diễn đàn trong 3 tháng.

Sau mấy ngày phiên tòa phải dừng để nghị án, Hội đồng xét xử đã ra một phán quyết gây bất ngờ, sửng sốt cho tất cả mọi người. Tất cả các bị cáo Vinaxhin được tự do nhưng phải quay trở lại điều hành Vinaxhin dưới sự giám sát chặt chẽ của một Ủy ban đặc biệt (dĩ nhiên là độc lập) với mục tiêu phải tạo ra lợi nhuận để bù đắp lại những thiệt hại mà họ đã gây ra. Thời hạn cuối cùng để hoàn thành mục tiêu sẽ do Ủy ban đặc biệt quyết định, nhưng không quá 30 năm.

Tinh thần tranh biện của cả xứ Biệt Nam lại bùng lên sau phán quyết của Phiên tòa Vinaxhin. Gần như đi đâu người ta cũng nghe nói đến Vinaxhin. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, blog liên tục đăng tải các tranh luận về Phiên tòa Vinaxhin. Thậm chí trong các phiên họp của Quốc hội (đa đảng) mới cũng bàn luận về Phiên tòa Vinaxhin, nhưng Quốc hội không thể can thiệp vào các phán quyết của tòa án. Đa phần người dân đều nghi ngại với phán quyết được cho là “quá nhẹ, quá nhân từ”. Nhưng hầu như tất cả mọi người đều thừa nhận, sau Phiên tòa Vinaxhin, trong mỗi người tự nhiên xuất hiện một cảm giác hết sức đặc biệt, cảm giác mà chưa bao giờ họ thấy kể từ khi hai miền Nam, Bắc được nối liền. Cảm giác đó rất khó gọi tên vì nếu nói ngay ra theo phản xạ thì mỗi người lại sợ người khác hiểu nhầm với tính lấp lửng của từ ngữ thời “bố già”. Nhưng vẫn không thể tìm được từ nào khác ngoài từ: Tin. Các cựu bị cáo Vinaxhin cũng thế, họ thấy hết sức choáng ngợp đến mức hơi choáng váng vì cảm giác mới mẻ ngập tràn trong lòng. Có “bố già”, sau khi theo rõi Phiên tòa Vinaxhin từ nơi tỵ nạn, đã đánh tiếng muốn sớm quay trở lại Biệt Nam, sẵn sàng đối diện với Công lý của chế độ mới. Cả xứ Biệt Nam như được tưới một tinh thần mới, hào hứng, thân thiện, đầy tin tưởng.

Các cựu bị cáo của Phiên tòa Vinaxhin (đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới) hăm hở, bắt tay ngay vào công việc – án phạt dành cho họ. Tất cả đều tự cam kết với Ủy ban đặc biệt sẽ không nhận lương cho đến khi Vinaxhin có lãi và họ đề xuất sẽ đóng góp vào Vinaxhin một số vốn bằng 90% tổng giá trị tài sản hiện có (đã được tòa án thẩm định). Tòa án chấp thuận đề xuất đó sau khi dự tính chắc chắn các cựu bị cáo và gia đình của họ có thể yên tâm sống thoải mái như công dân có mức sống trung bình tại các xứ như Tụy Điển hay Núc-Xăm-Bua trong 30 năm tới với 10% tài sản còn lại. Chỉ sau một thời gian không lâu, Vinaxhin đã hồi phục trở lại và thành công nhanh chóng. Vinaxhin đã không chỉ hoàn đủ số tiền khổng lồ mà các cựu bị cáo đã nhũng lạm mà còn trở thành một đại công ty Vinaxhin với uy tín và danh hiệu lừng lẫy về sáng tạo và minh bạch như ngày hôm nay.

Hôm qua, trong một cuộc phỏng vấn dành cho chương trình “Người Tương thời” của đài truyền hình tư nhân BNTN nổi tiếng, trả lời câu hỏi “Điều gì đã giúp cho Vinaxhin đạt được sự thành công mà mọi người thường gọi là “thần kỳ” như hiện nay?”, Tổng giám đốc của Vinaxhin trả lời: “Rất khó kể đủ các yếu tố đã dẫn đến thành công của một doanh nghiệp. Nhưng theo chúng tôi có ba yếu tố cơ bản không thể thiếu để một doanh nghiệp có thể phát huy tối đa tiềm năng của mình: Thứ nhất là một môi trường cạnh tranh để làm động lực cơ bản. Thứ hai là một hệ thống hành chính và pháp luật minh bạch để đảm bảo sự cạnh tranh diễn ra công bằng, văn minh. Và thứ ba là một tinh thần dám chinh phục những điều không thể. Vinaxhin thời chế độ mới đã có cả ba yếu tố đó.”

- “Khả năng tài chính không quan trọng sao, thưa ông?”,
- “Không, hoàn toàn không quan trọng. Cốt lõi là ý tưởng kinh doanh độc đáo, kèm theo một kế hoạch thực hiện khả thi. Khi có hai điều đó, các nhà băng, các quĩ đầu tư và công chúng sẵn sàng cung cấp vốn tài chính cho chúng ta.”
- “Thế còn sự “thần kỳ”?”
- “Thần kỳ ư?”, “Nếu có sự “thần kỳ” thì điều đó nên dành cho chế độ mà chúng ta mới có. Tôi không hiểu lắm về chính trị, nhưng từ khi sống trong chế độ mới đến nay tôi thấy hình như tất cả chúng ta đã tin nhau hơn và niềm tin vào những điều tốt đẹp đã lớn hơn trước rất nhiều. Ngay như bản thân chúng tôi là những người lẽ ra đã phải chịu tội chết hay bị người đời khinh bỉ, xa lánh thế mà vẫn được những người cầm quyền mới tôn trọng, tin cậy. Có lẽ chính niềm tin đó đã giúp chúng tôi vượt qua những điều tưởng chừng không thể. Và không phải chỉ có chúng tôi mới thành công, cả đất nước chúng ta đã có những tiến bộ mà trước đây chắc không ai dám nghĩ đến. Chúng ta đâu còn bị đất nước láng giềng bắt nạt nữa hay các con em của chúng ta đâu còn phải sợ hãi mỗi khi đến trường. Hình như người xưa đã từng nói ý rằng sự tin cậy lẫn nhau và sự tự tín là báu vật của quốc gia.”

(Chú thích dành riêng cho các độc giả của xứ Bắc Tàn, Tung Quốc hay Cu-Pa: chữ “đùng” trong câu chuyện này chỉ nhằm mô tả đúng cảm giác hết sức bất ngờ của chúng tôi-những người đã luôn cho rằng xứ Biệt Nam mãi mãi chỉ là xứ của những con người hồn hậu, dễ dãi và cam chịu. Đến nay chúng tôi đã phải thay đổi lại gần như tất cả mọi suy nghĩ từng có về họ.)

Phạm Hồng Sơn
07/07/2010